Trường đại học được tự chủ: đề tài nghiên cứu khoa học tăng lên

Anh Thư| 22/10/2017 11:39

KHPTO - Theo báo cáo đánh giá của nhóm nghiên cứu Trường ĐH kinh tế quốc dân trình bày tại Hội nghị tổng kết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, sau gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017, mô hình thí điểm tự chủ bước đầu được đánh giá tích cực, các cơ sở giáo dục đại học đã có những thành tựu nhất định.

Các trường tự chủ đã được giao nhiều quyền hơn nữa trong các lĩnh vực, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính nên đã chủ động, linh hoạt hơn trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Thời gian mở ngành nhanh chóng hơn giúp chủ động trong đào tạo, tận dụng cơ hội mở ngành để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của xã hội. Đào tạo chính quy đại trà có phần suy giảm, trong khi quy mô các chương trình tiên tiến, chất lượng cao tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2015.

Số đề tài khoa học công nghệ được phê duyệt từ 2013 - 2016 nhìn chung tăng lên. Tổng số đề tài trung bình hàng năm khoảng 500 đề tài. Số lượng các công trình được công bố của 12 trường tự chủ cũng tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013 - 2016, trong đó số lượng bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên môn nước ngoài tăng từ 574 bài năm 2013 lên 1437 bài năm 2016.

Về tổ chức bộ máy, các trường chủ động hơn trong thành lập mới, sáp nhập, chia tách, giải thể, nâng cấp các đơn vị trong trường, nhà trường. Sự sắp xếp lại tổ chức đem lại những hiệu quả tích cực. Cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý hơn do lực lượng lao động trực tiếp (giảng viên) tăng lên, trong khi đội ngũ lao động gián tiếp (chuyên viên, nhân viên) giảm xuống.

Tỷ lệ giảng viên chức danh giáo sư (GS) và phó giáo sư (PGS) tại các trường tự chủ trên 2 năm chiếm 9,2% tổng số giảng viên của các trường và lớn hơn khá nhiều so với tỷ lệ 6% trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học. Tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường tự chủ đã tăng lên so với giai đoạn trước tự chủ.

Về tài chính, tổng thu (không tính đầu tư xây dựng cơ bản) giai đoạn sau tự chủ so với trước tự chủ tăng 16,6%. Cơ cấu các khoản thu của các trường đại học công lập tự chủ chưa có sự thay đổi rõ rệt trước và sau tự chủ. Thu từ học phí tăng 4,29% so với thời điểm trước tự chủ và vẫn là nguồn thu chính của các trường đại học, chiếm trên 70% tổng thu. Cơ chế thí điểm tự chủ tạo điều kiện cho các trường chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch tài chính và dự toán ngân sách ngắn hạn, trung hạn, dài hạn… Các trường có thể chủ động nhiều hơn trong đầu tư mua sắm; chi học bổng cho sinh viên tăng từ 98 tỷ lên 137 tỷ, tỷ lệ gần 40%... Cùng với việc tăng học phí, các trường đã thực hiện tăng cường cơ sở vật chất, đảm bảo chất lượng đối với người học, thực hiện chính sách xã hội hóa đối với người học, có những thay đổi về chính sách học bổng và học phí đối với đối tượng chính sách.

Nhiều khó khăn cần giải quyết trước khi áp dụng rộng rãi

Theo nhóm nghiên cứu, bên cạnh những kết quả đạt được, sau gần 3 năm thực hiện tự chủ, nhiều khó khăn, vướng mắc cũng đã bộc lộ cần được tháo gỡ trước khi cơ chế tự chủ chính thức được vận hành rộng rãi. Hoạt động tự chủ đại học của các trường đại học công lập hiện đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật.

Trong quá trình thực hiện, dù đã có một số văn bản cởi trói cho các trường được “thí điểm tự chủ”, nhưng do tất cả các văn bản đó đều không thể vượt qua khỏi luật, đặc biệt là luật giáo dục đại học, luật đầu tư công, luật khoa học công nghệ… nên thực tế cơ sở pháp lý về tự chủ đại học chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn có những quy định chưa phù hợp đối với quá trình vận hành của các trường được giao tự chủ, một số còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng dẫn đến khó khăn khi triển khai.

Có 6 bất cập được nhóm nghiên cứu đưa ra, đó là: thiếu quy định và định nghĩa cụ thể về tự chủ và quyền của các trường đại học trong việc xác định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường; nhiều quy định, văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp để hỗ trợ các trường đại học tự chủ; các trường chưa rõ thẩm quyền được tự chủ của mình; tính thiếu đồng bộ, thống nhất và khả thi trong hệ thống các văn bản pháp quy, cơ chế, chính sách về thực hiện tự chủ đại học; việc giao quyền tự chủ đối với giáo dục đại học mới chỉ thực hiện trong phạm vi thí điểm, chưa trở thành yêu cầu cấp thiết với các trường; điều kiện tự chủ mới chỉ tiếp cận chủ yếu từ góc độ về tài chính chưa tính đến năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý của các cơ sở đào tạo.

Hiện nay, vấn đề tổ chức quản trị tại các cơ sở giáo dục thí điểm vẫn còn nhiều tranh cãi. Cơ quan chủ quản, hội đồng trường hay công tác tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục tại các trường tự chủ còn chưa thống nhất về ý tưởng và quá trình thực hiện làm ảnh hưởng tới hiệu quả tự chủ. Hội đồng trường được xác định là cực kỳ quan trọng trong quá trình tự chủ nhưng đến nay vẫn còn nhiều trường chưa thành lập được. Nguyên nhân là do sự thiếu đầy đủ và chưa rõ ràng trong cơ chế chính sách; mối quan hệ giữa đảng ủy, hội đồng trường, ban giám hiệu chưa rõ ràng; các cơ quan chủ quản chưa quyết liệt trong việc thành lập hội đồng trường; cơ cấu, tỷ lệ thành phần chưa hợp lý; hoạt động của hội đồng trường còn mang tính hình thức.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Trường đại học được tự chủ: đề tài nghiên cứu khoa học tăng lên
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO