Nghiên cứu mới về thuốc Tofacitinib trong điều trị bệnh về da

20/04/2017 21:17

KHPT-Nghiên cứu của Bissonnette R. và cs trên 69 bệnh nhân chàm thể tạng, sử dụng Tofacitinib 2% và nhóm chứng, kết quả cho thấy điểm EASI ở nhóm sử dụng Tofacitinib giảm rõ rệt sau 4 tuần. Các sang thương da và triệu chứng ngứa cũng cải thiện đáng kể...

Vẩy nến

Vẩy nến đặc trưng bởi quá trình hoạt hóa nhiều loại tế bào miễn dịch thâm nhập vào da, kích hoạt các tế bào thượng bì tăng sinh cũng như sản xuất các cytokin tiền viêm. Để kích hoạt quá trình miễn dịch, cần có sự dẫn truyền tín hiệu giữa các tế bào thông qua các hóa chất trung gian và các thụ thể. Từ đó sẽ hoạt hóa các kinase bên trong tế bào, các enzym này tới lượt chúng sẽ hoạt hóa các phân tử phía dưới, dẫn tới quá trình phiên mã gen để tạo các phân tử cần thiết. Chính vì vậy, việc ức chế các protein kinase JAK sẽ giúp ức chế quá trình hoạt hóa miễn dịch và quá trình viêm ở bệnh nhân vẩy nến.

Hiệu quả và tính an toàn của Tofacitinib trong điều trị vẩy nến được kiểm định qua các thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên có nhóm chứng và thử nghiệm so sánh ngẫu nhiên mù đôi ở các bệnh nhân vẩy nến mảng mức độ trung bình đến nặng. Trong 2 thử nghiệm lâm sàng phase III có nhóm chứng, khi sử dụng liều 10 mg x 2 lần/ngày: sau 16 tuần, tỷ lệ bệnh nhân giảm 75% điểm số PASI75 là trên 59%. Trong một thử nghiệm so sánh ngẫu nhiên mù đôi, giữa 2 thuốc là Tofacitinib và Etanercept, các tác giả nhận thấy Tofacitinib liều 10 mg x 2 lần/ngày có hiệu quả không kém Etanercept liều 50 mg x 2 lần/tuần.

Rụng tóc

Những nghiên cứu gần đây cho thấy những hiểu biết mới về sinh bệnh học của rụng tóc từng vùng có liên quan đến ức chế JAK, hứa hẹn một phương pháp điều trị mới. Nghiên cứu trên chuột mô hình rụng tóc từng vùng cho thấy gen diệt tự nhiên mã hóa tế bào T-CD8+ đóng vai trò trung tâm trong rụng tóc từng vùng, tạo nên điều hòa lên của interleukin 15 ở nang tóc và cuối cùng tạo nên interferon tấn công nang tóc.

Tác nhân ức chế JAK đóng vai trò điều hòa dòng thác interferon và interleukin 15 được chứng minh ức chế tín hiệu của interferon, làm gián đoạn chu trình feedback và làm nang tóc quay về giai đoạn anaphase, đảo ngược tiến trình bệnh (8,20).

Bạch biến

Trong 30 năm gần đây, người ta đã phát hiện ra nhiều cơ chế cụ thể trong bệnh sinh bạch biến bệnh. Các cơ chế phá hủy melanocyte qua trung gian tế bào T đã được xác định rõ ràng hơn: chemokine CXCL10 thâm nhiễm trong da và phá hủy tế bào melanocytes (18). Các nhà nghiên cứu nhận thấy dẫn truyền tín hiệu interferon-gamma thông qua JAK (15), do đó sử dụng chất ức chế JAK 1/3 Tofacitinib có hiệu quả trong việc block tín hiệu interferon-gamma, làm giảm CXCL10, tạo lại sắc tố ở sang thương bạch biến.

Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy ức chế Janus kinase (JAK) có hiệu quả trong điều trị bệnh. Vào năm 2015, tác giả BG. Craiglow và Brett A. King, đại học Yale đã báo cáo một ca điều trị bệnh bạch biến hiệu quả rõ ràng khi dùng tofacitinib citrat, một chất ức chế JAK 1/3(4). Người ta thấy rằng rụng tóc từng vùng và bạch biến có cùng các yếu tố nguy cơ di truyền và có thể cùng xuất hiện ở bệnh nhân hay trong gia đình (9). Tofacitinib được chứng minh có hiệu quả trong rụng tóc từng mảng cũng có thể hiệu quả trong điều trị bệnh bạch biến là điều có thể dự đoán được.

Chàm thể tạng

Đáp ứng miễn dịch qua trung gian Th2 là trung tâm của sinh bệnh học chàm thể tạng. Sự ức chế JAK1/ JAK3 sẽ ức chế con đường tín hiệu qua trung gian các cytokines, đặc biệt là IL-4, do đó giảm đáp ứng miễn dịch của tế bào Th2, từ đó giúp cải thiện tình trạng bệnh.

Trong một báo cáo của tác giả Levy và cs (14) về hiệu quả điều trị của thuốc Tofacitinib trên 6 bệnh nhân chàm thể tạng mức độ trung bình đến nặng, kháng trị với các điều trị thông thường. Kết quả cho thấy: giảm diện tích sang thương da, cải thiện các triệu chứng hồng ban, sẩn/phù, trầy xước và lichen hóa. Cả 6 bệnh nhân đều có cải thiện triệu chứng ngứa và giảm tình trạng mất ngủ. Điểm SCORAD trung bình giảm 54,8% trong khoảng từ tuần 4 tới tuần 14. Không có tác dụng phụ nào được ghi nhận.

Viêm bì cơ

Sự biểu hiện quá mức interferon và các sản phẩm của nó được tìm thấy trong sang thương và huyết thanh của bệnh nhân viêm bì cơ. Thông qua việc ức chế con đường tín hiệu JAK- STAT, sẽ làm giảm hoạt hóa các interferon, từ đó có thể làm giảm các quá trình viêm trong bệnh viêm bì cơ.

Kết luận

Những hiểu biết mới về sinh học phân tử trong cơ chế bệnh sinh của các bệnh lý da như vẩy nến, chàm thể tạng, rụng tóc lan tỏa, bạch biến… tạo ra nhiều khả năng hơn cho các phương pháp điều trị nhắm trúng đích. Các JAKs đóng vai trò như các chất dẫn truyền thông tin bậc 2 ở nội bào, cần thiết cho quá trình dẫn truyền thông tin từ các cytokine ngoại bào vào trong nhân tế bào.

Các thuốc ức chế JAKs có thể ức chế cả quá trình đáp ứng viêm và miễn dịch, những quá trình chủ chốt trong các bệnh lý nói trên. Tofacitinib là thuốc ức chế JAK 1/3, có 2 dạng đang được nghiên cứu là thuốc uống và thuốc thoa. Các dữ liệu nghiên cứu lâm sàng pha III cho thấy Tofacitinib có hiệu quả và an toàn khi dùng trong điều trị. Các dữ kiện lâm sàng hiện tại cho thấy Tofacitinib có thể có hiệu quả ngang với Etanercept trong điều trị vẩy nến.

Về tính an toàn, trong các nghiên cứu về thấp khớp, liều 5 mg x 2 lần/ngày được khuyến cáo vì an toàn hơn, tuy nhiên trong một số nghiên cứu về vẩy nến ta thấy liều 5 mg x 2 lần/ngày có hiệu quả thấp hơn. Đa phần các nghiên cứu cho thấy Tofacitinib không có hiệu quả nổi trội so với các thuốc sinh học khác trong điều trị vẩy nến, do đó có lẽ thuốc nên được nghiên cứu nhiều hơn về hiệu quả trong điều trị rụng tóc lan tỏa từng vùng cũng như bạch biến. Những nghiên cứu về các chất ức chế chọn lọc JAK cũng nên được tiến hành.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nghiên cứu mới về thuốc Tofacitinib trong điều trị bệnh về da
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO